Thứ năm, 10/5/2018, 21h47

Điều cần lưu ý khi dạy về Nguyễn Du

Đi thi hào ca dân tc, danh nhân văn hóa thế gii Nguyn Du (1766-1820) là mt trong s ít nhng tác gia Vit Nam có tm vóc nhân loi. Nói v tài năng hay đóng góp ca Nguyn Du, đã có rt nhiu công trình nghiên cu sâu sc, trong mt bài viết nh tht khó khái quát hơn. Nhưng có mt s điu rt đáng suy nghĩ khi các giáo viên dy v Nguyn Du.

Mt tiết hc môn văn ca hc sinh THPT. Ảnh: V.Yên

Bài hc lòng yêu thương con ngưi

Lòng nhân ái của đại thi hào bao trùm trong toàn bộ sáng tác của ông. Chúng ta sẽ mãi nhắc đến lòng nhân ái trong Văn tế thập loại chúng sinh với lòng bao dung, độ lượng sâu sắc của tác giả: “Còn chi ai quý ai hèn/ Còn chi mà nói ai hiền ai ngu?”; chúng ta cũng xót xa với tình cảnh người mẹ với các con trong Sở kiến hành: “Một mẹ cùng ba con/ Lê la bên đường nọ/ Đứa bé ôm trong lòng/ Đứa lớn tay mang giỏ. Trong giỏ đựng những gì?/ Mớ rau lẫn tấm cám/ Nửa ngày bụng vẫn không/ Áo quần thật lam lũ…” (bản dịch của Nguyễn Hữu Bông); chúng ta đầy trắc ẩn khi đọc những câu: “Mình gầy võ mày thưa duyên nhạt/ Ai biết nàng oanh liệt xưa kia/ Khúc đâu lệ chảy đầm đìa/ Khiến người nghe những đê mê xót thầm…” (bản dịch Học Canh) trong Long Thành cầm giả ca… Và dĩ nhiên, chúng ta không thể nào quên nàng Kiều trong Truyện Kiều, một tuyệt tác thấm đẫm lòng vị tha và yêu thương con người bị chà đạp dưới chế độ phong kiến: “Đau đớn thay phận đàn bà/ Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”. Người phụ nữ dưới chế độ xưa bị xem rẻ, bị mua bán, bị biến thành món đồ chơi của những kẻ có thế lực, có nhiều tiền thì dưới ngòi bút của nhà thơ trở thành người đáng được yêu thương, được chăm chút, được bảo vệ… Bởi thế mà Tố Hữu đã viết: “Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du/ Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày”, ngàn đời sau, nói về Nguyễn Du thì vẫn phải nói đến tình thương dạt dào trong tất cả các tác phẩm của ông.

Người thầy khi lên lớp ráng giúp học sinh học Nguyễn Du nhiều hơn để lòng nhân ái lại chảy đầy trong huyết quản, để chúng ta thấy rằng hạnh phúc là yêu thương, chia sẻ với người khác chứ không phải chỉ yêu cái tôi của bản thân mình.

Tinh thần quan tâm đến thời cuộc

Chúng ta có thể nhận định rằng, Nguyễn Du là người “ưu thời mẫn thế”, đó là người “có tâm huyết, nghĩa nhân; lo lắng việc đời mà thương xót thế gian và đau lòng trước thời thế nhiễu loạn”, như một từ điển đã giải thích. Thời cuộc bao trùm trong suốt cuộc đời của Nguyễn Du là những năm tháng chiến tranh, loạn lạc của nước ta. Ông sinh ra và lớn lên vào cuối thời Lê Trung Hưng, Trịnh - Nguyễn phân tranh đã đi đến hồi kết thúc, khởi nghĩa Tây Sơn nổ ra, đất nước ta vẫn còn chia cắt, cát cứ nhưng phải chống hai cuộc xâm lăng lớn của quân Xiêm ở phía Nam và quân Thanh ở phía Bắc. Tình thế lúc đó của nhân dân ta thật lầm than. Nguyễn Du ra làm quan dưới thời Gia Long, được cử làm sứ đi Trung Quốc nhưng bấy giờ vết thương chiến tranh vẫn chưa lành, lòng người còn ly tán, bản thân ông cứ đau đáu với tình cảnh của xã hội, của đất nước bấy giờ. Sự trăn trở, ray rứt của ông bộc lộ qua nhiều tác phẩm, dù không thật rõ ràng, không thật đầy đủ, chỉ là tâm trạng chán chường, than thở, nhất là những bài thơ trong Nam Trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục.

Học Nguyễn Du, người thầy phải khơi gợi cho học sinh không được thoát ly hiện thực mà phải có trách nhiệm với cuộc sống, với đất nước, với dân tộc. Chúng ta không được quay lưng với cuộc sống, cũng không tô vẽ cuộc sống một cách đầy màu sắc, cũng không đi ngược lại dòng chảy của cuộc sống. Chúng ta sống trọn vẹn trong cuộc sống đang có và góp chút tâm, tài, trí của mình để cuộc sống thêm tốt đẹp hơn, hay ít cũng kêu được tiếng đau thương của nhân thế để lay động lòng người, chứ không phải thờ ơ hay càng chà xát vào nỗi đau đó.

Gi gìn và phát huy vn tiếng Vit

Vi Nguyn Du, chúng ta có rt nhiu điu đ hc. Trách nhim ca ngưi thy không ch ging v tng tác phm c th hay v các đon trích mà cn khơi gi đưc trong suy nghĩ ca hc sinh v nhng bài hc ln lao t Nguyn Du. Có như vy thì nhng bài hc t các tác phm, các đon trích kia s đưc nh nhiu hơn!

Nói về đóng góp của Nguyễn Du vào sự phát triển của tiếng nói dân tộc không thể không nhắc đến câu nói nổi tiếng của nhà báo Phạm Quỳnh (1892-1945): “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn; tiếng ta còn, nước ta còn”. Các tác phẩm viết bằng chữ Nôm của đại thi hào đã góp phần làm giàu và đẹp tiếng Việt nói chung và các thể thơ của người Việt nói riêng, trong đó có thể lục bát và song thất lục bát. Đặc biệt, với Truyện Kiều, tiếng Việt được tô vẽ đẹp hơn, sang trọng hơn, lung linh hơn. Nhà phê bình Hoài Thanh (1909-1982) viết: “Không ở đâu, tiếng nói Việt Nam lại dồi dào mà chính xác, tinh vi, trong trẻo, truyền đúng cái thần của sự vật và sự việc như ở đây. Ðây đó trong lời thơ cũng có những chỗ công thức. Nhưng ở Nguyễn Du, đằng sau những lời có vẻ công thức, không mấy khi ta không thấy hồi hộp một tấm lòng. Người đọc xưa nay vẫn xem Truyện Kiều như một hòn ngọc quý cơ hồ không thể thay đổi, thêm bớt một tí gì”. Đâu phải ngẫu nhiên mà trong chuyến thăm Việt Nam năm 2000, Tổng thống Mỹ Bill Clinton đã lẩy Kiều: “Sen tàn cúc lại nở hoa/ Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân” trước khi có những lời phát biểu trang trọng; cũng đâu phải vô cớ mà trong chuyến thăm Mỹ của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng (năm 2015), Phó Tổng thống Mỹ Joe Biden cũng lẩy hai câu Kiều: “Trời còn có buổi hôm nay/ Tan sương đầu ngõ, vén mây giữa trời” để nói về quan hệ Việt - Mỹ hiện nay. Còn đọc hết Truyện Kiều, ta có thể tìm ra vô số câu hay, về từ, về ý, về cảnh, về tình!

Trong thời hội nhập, tiếng Việt chúng ta chịu không ít thử thách, trong đó có sự pha trộn tiếng nước ngoài, sự hiểu sai và dùng sai nhiều từ thuần Việt và từ có gốc Hán - Việt, sự tác động của tiếng lóng, “ngôn ngữ @”, “ngôn ngữ teen”… Nên ta phải đọc lại Truyện Kiều, thấm từng dòng, từng chữ để thấy rằng hơn 200 năm trước, trong thời kỳ nước ta còn chịu ảnh hưởng nặng nề về mặt văn hóa từ Trung Quốc thì Nguyễn Du đã tôn lên vẻ đẹp của tiếng Việt; người thầy hiện nay phải giúp cho học sinh gìn giữ, phát huy tiếng Việt để làm cho nó giàu hơn, đẹp hơn.

ThS. Nguyn Minh Hi