Thứ sáu, 2/1/2009, 13h01

Giáo dục Việt Nam - một năm nhìn lại

Học sinh Trường THPT Lê Hồng Phong trong ngày tuyên dương khen thưởng. Ảnh: T.T.Q

Trong không khí háo hức của những ngày cuối năm, người ta thường có thói quen tổng kết những việc làm được, những gì còn dang dở. Xen vào đó là tâm trạng mừng vui, hạnh phúc hoặc buồn rầu, ủ dột. Riêng với ngành giáo dục năm vừa qua, năm 2008, thì chỉ với hai từ “nuối tiếc” là đã đủ để nói lên tất cả.

Hạn chế, tồn tại còn nhiều
Nhiều năm trở lại đây, Đảng, Nhà nước và toàn xã hội đã có rất nhiều cố gắng nhằm cải cách, đổi mới nền giáo dục theo hướng chuẩn, đa dạng và hiện đại. Chính phủ cũng đã liên tục ra các nghị quyết, quyết định liên quan đến cải cách giáo dục, như Nghị quyết 14-2005/NQ-CP ra ngày 2-11-2005 về đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006-2010 hay các nghị quyết về đổi mới giáo dục trung học, tiểu học hoặc mầm non… Nhưng, thành tựu thu được là chưa tương xứng với hy vọng và tâm huyết bỏ ra. Hạn chế, tồn tại của nền giáo dục nước nhà vẫn còn hiển hiện. Điển hình là nội dung chương trình quá tải, sách giáo khoa còn nhiều mặt lạc hậu, chậm đổi mới; cách dạy và học còn nặng về nhồi nhét kiến thức một cách thụ động; giữa học và hành còn chưa hài hòa. Trong khi đó, học sinh, sinh viên thì kém năng động, thiếu mày mò sáng tạo, khả năng thực hành, thực nghiệm thành công thấp.
Trước hết là do quan điểm và mục tiêu đào tạo của hệ thống giáo dục chưa mang tầm chiến lược. Thêm vào đó là việc xây dựng chương trình, nội dung, phương pháp dạy học cũng như đội ngũ giảng viên còn nhiều yếu kém. Hệ thống tổ chức và công tác quản lý cũng có nhiều bất cập. Do đó, chất lượng nguồn nhân lực thấp, tính cạnh tranh kém, đội ngũ lao động lành nghề, có chuyên môn và giàu sức sáng tạo thiếu.
Chưa có giải pháp hữu hiệu
Mặc dù Bộ GD-ĐT đã phát động cuộc vận động “hai không” (với 4 nội dung: Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích, nói không với vi phạm đạo đức nhà giáo và nói không với ngồi nhầm lớp) nhưng vẫn còn nhiều nơi, nhiều trường chưa thực hiện tốt. Tình trạng gian lận trong thi cử, bệnh chạy theo thành tích hay hiện tượng mua bằng cấp, vi phạm đạo đức trong giáo dục còn nhiều.
Giáo dục đại học được coi là một khâu quan trọng trong quá trình đào tạo nhân lực chất lượng cao cho mỗi quốc gia. Vì thế, đã có nhiều biện pháp được đưa ra nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đại học nước nhà, nhưng hiệu quả là chưa có. Chỉ cần nhìn vào bảng xếp hạng các trường đại học trên thế giới của riêng nhóm Webometrics (nước Ý), tuy đã có tên 7 trường đại học của Việt Nam nhưng thứ tự rất thấp, thứ 1920 và hơn nữa. Trong bảng xếp hạng của THES, Guardian, Maclean thì lại không có tên của bất kỳ một trường đại học nào của Việt Nam. Còn Diễn đàn Kinh tế thế giới chấm điểm cho yếu tố “Đào tạo và giáo dục đại học” của nước ta với số điểm rất khiêm tốn (3,94 điểm) và xếp hạng 98. Thế mới biết, nền giáo dục của chúng ta đang đứng ở đâu trên bản đồ thế giới, còn chất lượng giáo dục thì báo động đến mức nào.
Những chỉ số ở trên tuy chỉ mang tính tương đối, lý thuyết nhưng nó cũng rất đáng để cho mọi người cùng suy ngẫm, thấm thía. Bởi ở tầm vĩ mô, Đảng và Nhà nước đã nhiệt liệt ủng hộ chủ chương đổi mới trong giáo dục với hàng loạt những hành động thiết thực: ngân sách đầu tư cho giáo dục liên tục tăng cao; cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ cho giáo dục được tăng cường; trình độ dân trí được nâng cao, hợp tác quốc tế không ngừng phát triển. Vậy sao chất lượng nền giáo dục còn thấp, vẫn không được thế giới thừa nhận? Phải chăng, việc triển khai các biện pháp còn mang nặng tính hình thức, thiếu khoa học và chưa đồng bộ giữa các khâu, các bước? Hay là do các biện pháp của chúng ta vẫn còn chưa mang tính khả thi cao? Cho nên, trong mỗi chúng ta, những người có tâm với nền giáo dục nước nhà đều có chung một tâm trạng nuối tiếc cũng là điều dễ hiểu.
Những tín hiệu vui
Yêu cầu của sự nghiệp đổi mới là cần có ngay những giải pháp khả thi hơn nữa, thiết thực hơn nữa nhằm tăng tốc cho nền giáo dục Việt Nam trên con đường đi tới sự hợp lý, và cao hơn là đẳng cấp quốc tế, được quốc tế thừa nhận. Do đó, nhằm nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo, nhất là ở bậc đại học. Vừa qua, Phó thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ GD-ĐT Nguyễn Thiện Nhân đã ký ban hành Chỉ thị về 14 nhiệm vụ trọng tâm của giáo dục đại học năm học 2008-2009. Theo đó, các trường tiếp tục kiện toàn Ban chỉ đạo và đẩy mạnh cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Liên tục quán triệt đến từng cán bộ, giảng viên, sinh viên các yêu cầu đặc thù của giáo dục đại học là “Nói không với đào tạo không đạt chuẩn, không đáp ứng nhu cầu xã hội”.
Về công tác tổ chức và quản lý đào tạo, sẽ xây dựng và ban hành 100 chương trình khung giáo dục đại học trong năm 2008. Các trường chuẩn bị đủ điều kiện và lộ trình hợp lý để chuyển sang đào tạo theo hệ thống tín chỉ vào năm học 2009-2010 hoặc chậm nhất là năm học 2010-2011. Đồng thời, tăng cường hợp tác quốc tế, đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị trường học và đổi mới cơ chế tài chính, đổi mới phương thức phân bổ ngân sách nhà nước gắn với tăng tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm về quản lý sử dụng tài chính của cơ sở giáo dục đại học.
Hy vọng rằng, với những việc làm tích cực trên, cùng với quyết tâm và nỗ lực lớn của toàn xã hội, trong tương lai không xa, thế hệ trẻ nước nhà sẽ được hưởng một nền giáo dục hiện đại, xứng đáng với một dân tộc có truyền thống giáo dục đáng kính trọng như Việt Nam chúng ta. Và sự nuối tiếc của năm cũ sẽ được thay bằng một tâm trạng mừng vui, phấn chấn hơn, hạnh phúc hơn trong năm mới Kỷ Sửu này.
Nguyễn Danh Phương