Thứ năm, 19/8/2010, 15h08

Giáo sư Ngô Bảo Châu đoạt giải thưởng Fields

NIỀM TỰ HÀO VIỆT NAM: Trưa nay 19-8, giải thưởng Fields - được xem là giải "Nobel Toán học" - đã chính thức được Tổng thống Ấn Độ Pratibha Patil trao cho giáo sư Ngô Bảo Châu của Việt Nam.

Đúng 10 giờ 30 giờ Ấn Độ (tức 12 giờ 55 phút theo giờ VN) ngày 19-8, tại Trung tâm Hội nghị quốc tế thành phố Hyderabad, hơn 4.000 nhà toán học, quan khách và đại diện nhiều phái đoàn ngoại giao đã có mặt để tham dự phiên khai mạc toàn thể.  
Thứ trưởng Bộ GD-ĐT Bùi Văn Ga, ông Nguyễn Hoành Sơn - đại biện lâm thời đại sứ quán VN tại Ấn Độ, GS Lê Tuấn Hoa, TS Phan Thị Hà Dương cùng một số nhà toán học Việt Nam đều có mặt tham dự phiên khai mạc.
Và nhân vật đặc biệt của sự kiện này - GS toán học Ngô Bảo Châu - cũng đã hiện diện trong sự chào đón của nhiều nhà toán học từ các quốc gia.
Cả hội trường đã vang lên tiếng vỗ tay rào rạt khi các giải thưởng được trao.
Tổng thống Ấn Độ Pratibha Patil trao giải thưởng Fields cho Giáo sư Ngô Bảo Châu (phải) - Ảnh: TTO chụp lại
Giáo sư Bảo Châu thứ hai (từ trái qua) ngồi ở hàng ghế đầu cùng các nhà toán học thế giới - Ảnh: TTO chụp lại
Ngay từ khi buổi lễ khai mạc bắt đầu, nhìn vào hàng ghế đầu của phiên khai mạc, giới toán học đã nhanh chóng khẳng định GS Ngô Bảo Châu chắc chắn sẽ giành giải Fields.
Đúng như dự đoán, không lâu sau đó, trong bốn cái tên được xướng lên đã có Ngô Bảo Châu. Tên GS Ngô Bảo Châu được xướng lên thứ hai trong bốn nhà toán học được giải Fields lần này:
- Elon Lindenstrauss, nhà toán học người Israel
- Ngô Bảo Châu (Việt Nam)
- Stalislav Smiarnov, nhà toán học người Nga, hiện đang làm việc tại Zurich (Thụy Sĩ)
- Cedric Villani, nhà toán học người Pháp.
Nhà toán học Daniel A. Spielman (ĐH Yale, Hoa Kỳ) được nhận giải thưởng Gauss.
Giải thưởng Chern lần đầu tiên được trao tại kỳ ICM lần này đã thuộc về nhà toán học Canada Luis Nirenberg.
Giải Nevanlinna được trao cho Daniel Spielman (Mỹ).
Giáo sư Ngô Bảo Châu tại Trung tâm Hội nghị quốc tế Hyderabad - Ảnh: Hoài Linh - Tuổi Trẻ
Trao đổi với Tuổi Trẻ trước khi bước vào hội trường, GS Ngô Bảo Châu rất bình thản trước giờ phút giải thưởng Fields cùng các giải thưởng khác của Liên đoàn toán học thế giới sẽ được công bố ít phút nữa.
GS Châu cho biết chỉ hồi hộp đôi chút khi nghĩ đến bài báo cáo sẽ trình bày trước phiên đoàn thể của đại hội vì đại hội là nơi tập trung tinh hoa của giới toán học thế giới, với sự hiện diện của các nhà toán học uy tín đến từ các cường quốc toán học trên thế giới.
Ngay sau lời khi mạc ngắn gọn của ông Chủ tịch Liên đoàn toán học thế giới và lời chào mừng của thống đốc bang, các giải thưởng được công bố và trao bởi tổng thống Ân Độ ngài Pratibha Patil.
Sau khi giải thưởng được công bố, Ban tổ chức tổ chức họp báo để giới thiệu những nhà toán học được vinh danh tại ICM2010.
Giải Fields gồm một huy chương vàng và tiền thưởng 15.000 USD (năm 2006).
Chiều tối nay, Đại sứ quán Việt Nam tổ chức tiệc chào đón GS Ngô Bảo Châu và các nhà toán học VN đến dự ICM 2010 tại Ấn Độ.
Giáo sư Ngô Bảo Châu trên đường vào Trung tâm Hội nghị quốc tế Hyderabad - Ảnh: Hoài Linh - Tuổi Trẻ
GS Châu là một trong 20 nhà toán học được mời trình bày báo cáo công trình khoa học và thành tựu nghiên cứu tại đại hội. Đồng thời ông cũng là một trong hai nhà khoa học dưới 40 tuổi được mời thuyết trình tại ICM 2010.
GS Ngô Bảo Châu đã lập một kỳ tích và mang lại vinh quang đặc biệt cho đất nước. Trong suốt 74 năm qua, châu Á mới có một quốc gia duy nhất có công dân được nhận giải này là Nhật Bản (vào các năm 1954, 1970 và 1990).
THANH HÀ / Tuổi Trẻ (từ Ấn Độ)
52 nhà toán học từng đoạt giải Fields
Mặt trước của huân chương Fields có hình của nhà toán học Archimedes
Giải thưởng Fields do nhà toán học Canada John Charles Fields sáng lập lần đầu được trao vào năm 1936 và từ năm 1950 được trao đều đặn. Mục đích của giải thưởng là sự công nhận và hỗ trợ các nhà toán học trẻ đã có những đóng góp quan trọng cho toán học. Sau đây là danh sách 52 nhà toán học từng đoạt giải Fields:
2010: Elon Lindenstrauss (Israel), Ngô Bảo Châu (Việt Nam), Stalislav Smiarnov, (Thụy Sĩ) và Cedric Villani (Pháp)
2006: Terence Tao (Úc/Mỹ), Grigori Perelman (Nga), Andrei Okounkov (Nga/Mỹ), Wendelin Werner (Pháp)
2002: Laurent Lafforgue (Pháp), Vladimir Voevodsky (Nga/Mỹ)
1998: Richard Ewen Borcherds (Anh), William Timothy Gowers (Anh), Maxim Kontsevich (Nga), Curtis T. McMullen (Mỹ)
1994: Efim Isakovich Zelmanov (Nga), Pierre-Louis Lions (Pháp), Jean Bourgain (Bỉ), Jean-Christophe Yoccoz (Pháp)
1990: Vladimir Drinfeld (Liên Xô), Vaughan Frederick Randal Jones (New Zealand), Shigefumi Mori (Nhật Bản), Edward Witten (Mỹ)
1986: Simon Donaldson (Anh), Gerd Faltings (Tây Đức), Michael Freedman (Mỹ)
1982: Alain Connes (Pháp), William Thurston (Mỹ), Shing Tung Yau (Trung Quốc/Mỹ)
1978
: Pierre Deligne (Bỉ), Charles Fefferman (Mỹ), Grigory Margulis (Liên Xô), Daniel Quillen (Mỹ)
1974: Enrico Bombieri (Ý), David Mumford (Mỹ)
1970: Alan Baker (Anh), Heisuke Hironaka (Nhật), Sergei Petrovich Novikov (Liên Xô), John Griggs Thompson (Anh)
1966: Michael Atiyah (Anh), Paul Joseph Cohen (Mỹ), Alexander Grothendieck (Pháp), Stephen Smale (Mỹ)
1962: Lars Hörmander (Thụy Điển), John Milnor (Mỹ)
1958: Klaus Roth (Anh), Rene Thom (Pháp)
1954: Kunihiko Kodaira (Nhật Bản), Jean-Pierre Serre (Pháp)
1950: Laurent Schwartz (Pháp), Atle Selberg (Na Uy)
1936: Lars Ahlfors (Phần Lan), Jesse Douglas (Mỹ)
Nguồn: wikipedia