Thứ sáu, 14/1/2011, 15h01

Phương pháp dạy - học tác phẩm văn học

Giáo viên văn là nhà khoa học sư phạm có chất nghệ sĩ. Ảnh: P.N.Q
Lâu nay, trong nhiều hội nghị của ngành GD-ĐT và trên báo chí, người ta bàn thảo rất nhiều về việc đổi mới phương pháp dạy - học (PPDH) môn ngữ văn. Bởi có một thực tế: chất lượng dạy - học văn đang rất yếu kém.
Đổi mới PPDH môn ngữ văn là một vấn đề khá rộng, chứ không đơn giản như việc phê phán hiện tượng “thầy đọc, trò chép”. Môn ngữ văn ở bậc phổ thông bao gồm 3 phân môn: văn học (lịch sử văn học, lý luận văn học, tác gia văn học, tác phẩm văn học trong nước và nước ngoài); tiếng Việt và tập làm văn (làm văn). Mỗi phân môn có PPDH riêng của nó. Theo tôi, cốt lõi của bộ môn ngữ văn là tác phẩm văn học (TPVH) và PPDH TPVH (giảng văn) là khó khăn nhất, được bàn cãi nhiều nhất. Tôi xin gợi ra và đề xuất bốn điều cơ bản về PPDH TPVH.
Giáo viên và học sinh phải đọc kỹ TPVH
Dạy TPVH mà giáo viên (GV) và học sinh (HS) không đọc kỹ, không nghiền ngẫm tác phẩm thì thật là vô lý! Thực tế hiện nay, HS (và cả GV) rất ngại đọc TPVH; mà số lượng TPVH có trong chương trình không phải là nhiều! Tôi dạy ở bậc đại học nhưng cũng tham gia giảng dạy văn ở một số trường THPT dân lập, nên tôi biết rõ thực trạng này. TPVH ngắn hay dài, thuộc bất cứ thể loại nào, HS đều ngại đọc. Thế cho nên, các bài văn thi ĐH-CĐ nhiều năm nay có những chuyện “râu ông nọ cắm cằm bà kia” và những bài văn ngô nghê, tức cười. Chẳng hạn như anh Chàng (viết sai chính tả, phải viết là Tràng - truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân) đã “lãnh đạo nhân dân đứng lên phá kho thóc của Nhật, chia cho dân nghèo”; Mỵ (trong Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài) “là một cô gái đẹp lộng lẫy, làm dâu nhà Bá Kiến, bị Bá Kiến hành hạ dã man. A Phủ yêu Mỵ như điên như dại và xông đến nhà Bá Kiến cứu Mỵ, rồi hai người rủ nhau đi trốn”... Cho nên, việc đọc trước và đọc kỹ tác phẩm - phải là điều bắt buộc đối với HS. Trước khi giảng bài, GV phải kiểm tra HS về việc đọc TPVH, thông qua việc xem vở chuẩn bị bài (trong đó có phần tóm tắt nội dung tác phẩm, hoặc phát biểu cảm nghĩ ban đầu về tác phẩm). Có đọc trước và đọc kỹ tác phẩm thì mới bước đầu cảm - hiểu tác phẩm, mới sơ bộ nắm được chủ đề, kết cấu, trạng thái cảm xúc, hay cốt truyện, tính cách các nhân vật và các biện pháp thể hiện của tác giả.
Phải nắm được tiểu sử của tác giả và hoàn cảnh ra đời của TPVH
Tác giả nào, tác phẩm ấy. TPVH là thế giới nội tâm của nhà văn, thể hiện tư tưởng, thái độ, tình cảm của nhà văn đối với cuộc sống, thể hiện khát vọng chân - thiện - mỹ của nhà văn. Mỗi nhà văn đều sinh ra trong một hoàn cảnh gia đình, với những sở thích, lối sống nào đó và sống trong một bối cảnh lịch sử - xã hội nhất định. Môi trường gia đình và xã hội, với những biểu hiện đa dạng của nó về chính trị, kinh tế, văn hóa, ảnh hưởng trực tiếp đến tư tưởng và tình cảm của nhà văn, và điều này được phản ánh trong tác phẩm ở một phạm vi nào đó. Vì không nắm được tiểu sử tác giả, hoàn cảnh ra đời của tác phẩm, cho nên HS viết rất lung tung; ví như: “Nhà thơ Xuân Diệu họ Ngô, cha là Ngô Xuân Lộc, sinh ra sau Cách mạng Tháng 8-1945, quê ở Bắc Ninh”; “Ông Xuân Quỳnh là một nhà thơ tình vĩ đại. Sóng là bài thơ nổi tiếng của ông”!... Không nắm được tiểu sử tác giả và hoàn cảnh ra đời của tác phẩm, thì không thể hiểu đúng, đánh giá đúng được tác phẩm.
Phải giảng dạy theo loại thể của TPVH
Nói cách khác, phải vận dụng kiến thức lý luận văn học (những vấn đề cơ bản nhất) về cấu trúc của TPVH và loại thể của TPVH trong việc giảng văn. Đây là vấn đề nguyên tắc, có ý nghĩa phương pháp luận. Về cấu trúc, TPVH nào cũng có đề tài, chủ đề, tư tưởng tác phẩm, các biện pháp thể hiện, hình tượng cảm xúc (đối với tác phẩm trữ tình), cốt truyện, các tính cách nhân vật (đối với tác phẩm tự sự), và hệ thống lập luận (đối với các tác phẩm nghị luận có giá trị văn học). Trong các yếu tố đó, thì chủ đề và tư tưởng tác phẩm - tức là chủ đích sáng tác của nhà văn, điều mà nhà văn muốn nhắn gửi đến người đọc - là hai yếu tố cốt lõi, chỉ đạo và quán xuyến toàn bộ tác phẩm. Mặt khác, TPVH nào cũng thuộc một loại thể nhất định (cũng có khi tác giả sử dụng đồng thời vài thể loại, nhưng bao giờ cũng có một thể loại chính). Mỗi loại thể (gồm nhiều thể loại) lại có những đặc điểm thi pháp riêng. Chẳng hạn, tác phẩm thuộc loại thể tự sự (có hai thể loại chính, là truyện ngắn, tiểu thuyết), thì phải có cốt truyện (tình tiết, sự kiện), có nhân vật và lời kể của tác giả (tương ứng với các biện pháp thể hiện của tác phẩm). Tác phẩm thuộc loại thể trữ tình (có hai thể loại chính là thơ trữ tình, tuỳ bút...) thì phải có cấu tứ, hình tượng cảm xúc (ví dụ như hình tượng “Sóng” của nữ sĩ Xuân Quỳnh), hình ảnh và nhịp điệu câu thơ (Xuân Diệu từng nói: “Nhịp điệu cũng chính là xúc cảm”)... Do đó, giảng dạy tác phẩm tự sự, thì trọng tâm phải phân tích và bình giá cốt truyện (ví dụ như bình giá tình huống truyện trong Vợ nhặt...) và tính cách các nhân vật (diễn biến theo thời gian và hoàn cảnh. Ví dụ: Phân tích tính cách nhân vật Mỵ và bà cụ Tứ trong Vợ nhặt...). Giảng dạy tác phẩm trữ tình thì phải chú trọng phân tích hình tượng cảm xúc, hình ảnh, ngôn ngữ cô đọng và nhịp điệu của câu thơ, đoạn thơ... Giảng giải, phân tích, bình luận các yếu tố đó để làm sáng tỏ chủ đề và tư tưởng tác phẩm.
GV văn phải là nhà khoa học sư phạm, người nghệ sĩ
Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng từng nói: GV là “nhân vật trung tâm” của nhà trường. Tôi rất tán đồng quan điểm này và nhấn mạnh rằng: Ngay trong mỗi giờ dạy học, GV cũng vẫn là và phải là “nhân vật trung tâm”! GV là người chủ đạo, người truyền thụ kiến thức, người hướng dẫn, gợi ý để HS tìm hiểu, tiếp nhận, khám phá các giá trị nội dung và hình thức nghệ thuật của tác phẩm. GV phải định hướng cho HS tìm hiểu, phân tích tác phẩm, nhưng nhiều khi phải khuyến khích các em tinh thần phản biện, tìm tòi, phát hiện những cái đẹp, cái hay (và cả cái khiếm khuyết) của tác phẩm; nghĩa là phải phát huy tinh thần “dân chủ” trong giờ học. Đồng thời, GV phải sử dụng linh hoạt các hình thức dạy học: khi thì phát vấn (có nhiều loại câu hỏi: câu hỏi tìm hiểu, câu hỏi phát hiện, câu hỏi phân tích, câu hỏi bình giá, câu hỏi gợi cảm xúc, câu hỏi khái quát và tổng hợp...); khi thì phân tích, tổng hợp; khi thì diễn giảng (HS rất thích những lời diễn giảng hay); có khi còn tạo ra những “khoảng lặng nghệ thuật” để học trò thẩm thấu tác phẩm.
Về sử dụng các hình thức dạy học, theo tôi, trong giờ giảng văn, phát vấn (nêu câu hỏi) là cần thiết, nhưng không nên đề cao quá mức hình thức này, không nên đặt ra tràn lan quá nhiều câu hỏi; và không nên ngộ nhận rằng: có nhiều câu hỏi, giờ học mới sinh động, mới đạt hiệu quả cao (?!). Bên cạnh đó, trong giờ giảng văn, không nên lạm dụng công nghệ thông tin (tức soạn giảng theo giáo án điện tử). Trong giờ giảng văn, thì lời giảng của GV (bao gồm cả cách đặt câu hỏi, cách dùng từ ngữ, lời lẽ phân tích, bình giảng, đánh giá, giọng điệu gợi cảm của GV phù hợp với sắc thái tình cảm của tác phẩm) là rất quan trọng - vì TPVH là “nghệ thuật ngôn từ”! Mặt khác, GV văn cần phải thể hiện tính nghệ sĩ (hiểu một cách đúng đắn từ này) trong giờ dạy giảng văn. Khát khao truyền đạt những cái đúng, cái hay, cái đẹp của tác phẩm, với những cảm xúc phù hợp và chân thành biểu hiện trên gương mặt, dáng vẻ, cách đọc tác phẩm và giọng nói, cùng với chữ viết bảng đẹp và lối trình bày sáng láng của GV sẽ rất cuốn hút HS.
Đào Ngọc Đệ
(Giảng viên Trường ĐH Hải Phòng)