Thứ sáu, 7/5/2010, 08h05

Các kĩ năng vẽ biểu đồ trong môn địa lý

HS Trường THPT Mạc Đĩnh Chi trong giờ học môn địa. Ảnh: Trần Huy

Trong cơ cấu đề thi tốt nghiệp THPT môn địa lý, phần vẽ biểu đồ thường chiếm khoảng 40-50% số điểm bài thi. Tuy nhiên, nhiều thí sinh (TS) thường bị mất điểm hoặc không đạt được điểm tối đa trong phần này do chủ quan, vẽ không chính xác theo yêu cầu của bài. Dưới đây là những kĩ năng về vẽ biểu đồ.
Lựa chọn biểu đồ thích hợp
Các câu hỏi về kĩ năng vẽ biểu đồ thường có ba phần: lời dẫn (đặt vấn đề), bảng số liệu thống kê, lời kết (yêu cầu cần làm). Dựa vào những phần trên, TS xác định vẽ biểu đồ nào thích hợp nhất.
- Phần lời dẫn (đặt vấn đề): Câu hỏi thường có những dạng sau: Dạng lời dẫn có chỉ định: Từ bảng số liệu, hãy vẽ biểu đồ hình tròn thể hiện cơ cấu sử dụng… năm… Từ thông tin này, TS có thể xác định được dạng biểu đồ cần thể hiện; Dạng lời dẫn kín: Cho bảng số liệu sau… hãy vẽ biểu đồ thích hợp nhất… thể hiện… và cho nhận xét. Ở dạng này, muốn xác định được biểu đồ cần vẽ, TS cần nghiên cứu kĩ các thành phần của câu hỏi, phần cuối trong câu kết thường hàm chứa những gợi ý nên vẽ biểu đồ gì; Dạng lời dẫn mở: Cho bảng số liệu sau… Hãy vẽ biểu đồ sản lượng công nghiệp nước ta phân theo các vùng kinh tế năm… Như vậy, câu hỏi đã ngầm gợi ý là vẽ một loại biểu đồ nhất định, với dạng “lời dẫn mở” này, TS cần chú ý vào một số từ gợi mở trong câu hỏi như biểu đồ đường biểu diễn: Thường có những từ gợi mở đi kèm như “tăng trưởng”, “biến động”, “phát triển”, “qua các năm từ… đến…”. VD: Tốc độ tăng dân số của nước ta qua các năm…; Tình hình biến động về sản lượng lương thực…; tốc độ phát triển của nền kinh tế…; Biểu đồ hình cột: Thường có các từ gợi mở như “khối lượng”, “sản lượng”, “diện tích”, “từ năm… đến năm…” hay “qua các thời kì…”. VD: Khối lượng hàng hóa vận chuyển…, Sản lượng lương thực của…; Diện tích trồng cây công nghiệp…; Biểu đồ cơ cấu: Thường có các từ gợi mở như “cơ cấu”, “phân theo”, “trong đó”, “bao gồm”, “chia ra”, “chia theo”… VD: Giá trị ngành sản lượng công nghiệp phân theo…; Hàng hóa vận chuyển theo loại đường…; Cơ cấu tổng giá trị xuất - nhập khẩu…
- Phần căn cứ vào bảng số liệu thống kê: Khi nghiên cứu đặc điểm của bảng số liệu để chọn vẽ biểu đồ nào thích hợp, TS cần lưu ý những điểm sau: Nếu bảng số liệu đưa ra dãy số liệu: tỷ lệ (%) hay giá trị tuyệt đối phát triển theo một chuỗi thời gian (có ít nhất 4 năm trở lên), TS nên chọn biểu đồ đường biểu diễn; nếu có một dãy số liệu tuyệt đối về quy mô, số lượng của một (hay nhiều) đối tượng biến động theo một số thời điểm (hay theo các thời kì), TS nên chọn biểu đồhình cột đơn; trong trường hợp có 2 đối tượng với 2 đại lượng khác nhau nhưng giữa chúng có mối quan hệ hữu cơ như diện tích (ha), năng suất (tạ/ ha) của một vùng miền nào đó theo chuỗi thời gian, TS nên chọn biểu đồ dạng kết hợp; nếu bảng số liệu có từ 3 đối tượng trở lên với các đại lượng khác nhau (tấn, mét, ha…) diễn biến theo thời gian, TS nên chọn biểu đồ chỉ số; trong trường hợp bảng số liệu trình bày theo dạng phân ra từng phần: tổng số, chia ra: nông - lâm - ngư, công nghiệp - xây dựng, dịch vụ… Với bảng số liệu này, TS chọn dạng biểu đồ cơ cấu (hình tròn, cột chồng, miền). Tuy nhiên, khi lựa chọn cần chú ý các điểm sau đây: Biểu đồ hình tròn (điều kiện là các thành phần khi tính toán tổng toàn bộ phải bằng 100%); biểu đồcột chồng (khi một tổng thể có quá nhiều thành phần, nếu vẽ biểu đồhình tròn thì các góc cạnh hình quạt sẽ quá hẹp. Trường hợp này nên chuyển sang vẽ biểu đồ cột chồng theo đại lượng tương đối (%) cho dễ thể hiện); biểu đồ miền (chỉ sử dụng khi trên bảng số liệu các đối tượng trải qua từ 4 thời điểm trở lên, không nên vẽ hình tròn).
- Căn cứ vào lời kết của câu hỏi: Trong nhiều trường hợp, nội dung lời kết của câu hỏi chính là gợi ý cho vẽ một loại biểu đồ nào đó. VD: Cho bảng số liệu sau… Anh (chị) hãy vẽ biểu đồ thích hợp… Nhận xét về sự chuyển dịch cơ cấu… và giải thích nguyên nhân của sự chuyển dịch đó. Như vậy, lời kết của câu hỏi đã ngầm cho TS biết nên chọn loại biểu đồ thuộc nhóm biểu đồ cơ cấu là thích hợp.
Một số điều cần lưu ý
 - Đối với các biểu đồ hình cột, đường biểu diễn, biểu đồ kết hợp cột và đường, biểu đồ miền: Trục giá trị (trục đứng) phải có mốc giá trị cao hơn giá trị cao nhất trong bảng số liệu, có mũi tên chỉ chiều tăng lên của giá trị. Trên đầu cột cần ghi rõ đơn vị thể hiện (tấn, triệu, %...), ghi rõ gốc tọa độ; trục định loại (trục ngang) phải ghi rõ đơn vị thể hiện (năm, nhóm tuổi…). Đối với các biểu đồ đường biểu diễn, miền, kết hợp đường và cột phải chia các mốc trên trục định loại tương ứng với các mốc thời gian. Riêng đối với các biểu đồ hình cột, điều này không có tính chất bắt buộc nhưng vẫn có thể chia khoảng cách đúng với bảng số liệu để dễ dàng quan sát được cả mặt quy mô lẫn động thái phát triển, phải ghi các số liệu lên đầu cột (đối với các biểu đồ cột đơn). Trong trường hợp biểu đồ cột đơn nếu có sự chênh lệch quá lớn về giá trị của một vài cột (lớn nhất) và các cột còn lại, TS có thể dùng các thủ pháp vẽ trục giá trị gián đoạn ở chỗ trên giá trị cao nhất của các cột còn lại. Các cột có giá trị lớn nhất sẽ được vẽ thành cột gián đoạn, như vậy, biểu đồ vừa đảm bảo tính khoa học và thẩm mĩ. Ngoài ra, biểu đồ phải có phần chú giải và tên biểu đồ. TS nên thống nhất kí hiệu chú giải trước khi vẽ các biểu đồ thể hiện các đối tượng khác nhau. Tên biểu đồ có thể ghi ở trên hoặc dưới biểu đồ.
- Đối với biểu đồ hình tròn: Cần thiết kế các chú giải trước khi vẽ các hình quạt thể hiện các phần của đối tượng. Thứ tự vẽ các hình quạt phải theo đúng thứ tự được trình bày ở phần chú giải. Nếu vẽ 2 biểu đồ trở lên cần phải thống nhất quy tắc vẽ, vẽ hình quạt thứ nhất lấy gốc từ tia 12 giờ (như mặt đồng hồ) rồi vẽ tiếp cho các hình quạt tiếp theo thuận theo chiều kim đồng hồ. Đối với trường hợp vẽ biểu đồ cặp hai nửa hình tròn thì trật tự vẽ có sự thay đổi. Đối với nửa hình tròn trên, TS vẽ hình quạt thứ nhất bắt đầu từ tia 9 giờ, từ đó vẽ tiếp cho thành phần thứ 2, 3… thuận theo chiều kim đồng hồ. Với nửa hình tròn dưới, TS cũng vẽ hình quạt thứ nhất từ tia 9 giờ và vẽ các thành phần còn lại ngược chiều kim đồng hồ. Nếu bảng số liệu cho là cơ cấu (%), TS vẽ các biểu đồ có kích thước bằng nhau (vì không có cơ sở để vẽ các biểu đồ có kích thước lớn, nhỏ khác nhau). Còn nếu trường hợp bảng số liệu là giá trị tuyệt đối, TS phải vẽ các biểu đồcó kích thước khác nhau một cách tương ứng (tính bán kính cho mỗi vòng tròn). Biểu đồ cần phải có phần chú giải, tên biểu đồ có thể ghi ở trên hoặc dưới biểu đồ).
Ngọc Anh