Thứ ba, 26/2/2013, 14h02

Rèn luyện khả năng chú ý

Rèn luyện khả năng CY cho học sinh có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động của giáo viên. Ảnh: H.Triều

Rèn luyện khả năng chú ý (CY) cho học sinh có ý nghĩa hết sức quan trọng trong hoạt động sư phạm của người giáo viên, bởi học sinh có khả năng này tốt sẽ ghi nhớ sâu nội dung học tập, ảnh hưởng tới kết quả nhận thức, nâng cao hiệu quả học tập.
Vì vậy trong quá trình dạy học, người giáo viên cần vận dụng phù hợp để rèn luyện khả năng CY cho học sinh nhằm nâng cao chất lượng dạy học. CY là sự tập trung của ý thức vào một hay một nhóm sự vật, hiện tượng để định hướng hoạt động, đảm bảo điều kiện thần kinh - tâm lý cần thiết cho hoạt động tiến hành có hiệu quả. CY không phải là quá trình tâm lý độc lập mà chỉ là một mặt của hoạt động tâm lý.
Cơ sở sinh lý của CY là phản xạ định hướng. Phản xạ này xuất hiện trong não bộ khi có kích thích mới lạ trong môi trường sống, nó có tác dụng định hướng và giúp cơ thể có thể phản ứng tốt nhất đối với vật kích thích. Phản xạ định hướng là phản xạ bẩm sinh, xuất hiện khi có kích thích mới lạ, khác thường, nếu kích thích lặp đi lặp lại thì phản xạ sẽ bị mất.
1. CY được chia thành 3 loại: CY không chủ định, CY có chủ định và CY sau chủ định. CY không chủ định là loại CY không có mục đích tự giác, không cần sự nỗ lực của bản thân, không cần sử dụng biện pháp nào mà vẫn CY vào đối tượng được. CY không chủ định chủ yếu do tác động bên ngoài gây ra, phụ thuộc vào đặc điểm vật kích thích như: Vật kích thích mới lạ, hấp dẫn về hình dáng, màu sắc; cường độ hay sự tương phản giữa vật kích thích và bối cảnh. Ngoài đặc điểm của bản thân đối tượng thì quan hệ của đối tượng với nhu cầu, hứng thú của chủ thể cũng là nguyên nhân gây ra CY không chủ định. CY này có đặc điểm là không có mục đích đặt ra từ trước, không có biện pháp để CY, không đòi hỏi sự cố gắng, sự nỗ lực ý chí vì vậy sẽ ít mệt mỏi, không căng thẳng thần kinh song CY không chủ định thường kém bền vững. CY có chủ định là sự định hướng hoạt động do bản thân chủ thể đặt ra. Do bản thân xác định mục đích hành động nên CY có chủ định phụ thuộc nhiều vào chính mục đích và nhiệm vụ hành động. Loại CY này mang tính bền vững cao hơn. Tuy nhiên do cần phải có sự nỗ lực cố gắng, nên nếu kéo dài thì dễ gây căng thẳng, mệt mỏi. CY sau chủ định:Loại CY này vốn là CY có chủ định nhưng không đòi hỏi sự căng thẳng về ý chí, lôi cuốn con người vào nội dung và phương thức hoạt động tới mức khoái cảm, đem lại hiệu quả cao của CY. CY sau chủ định giống với CY không chủ định ở tính có mục đích tri giác nhưng nó cũng không đồng nhất với CY có chủ định vì sự say mê, hứng thú và không có sự căng thẳng ý chí.
Ba loại CY trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, bổ sung và chuyển hóa cho nhau, giúp con người phản ánh tốt nhất đối tượng. Các loại CY này đều cần thiết cho hoạt động của con người vì mỗi loại đều có ưu điểm và hạn chế của nó, trong đó CY sau chủ định là loại cần hình thành trong các hoạt động của con người.
2. CY có các thuộc tính cơ bản sau: Thứ nhất là sức tập trung CY. Đây là khả năng tập trung vào một phạm vi hẹp, chỉ CY đến một hay một số đối tượng cần thiết cho hoạt động nhằm phản ánh đối tượng được tốt nhất, số lượng các đối tượng mà CY hướng tới gọi là khối lượng CY. Sức CY càng cao thì cường độ CY càng lớn và hiệu quả hoạt động cao. Thứ hai là tính bền vững của CY. Đây là khả năng duy trì CY trong một thời gian dài đối với một hay một số đối tượng nhất định không chuyển sang đối tượng khác. Đối lập với tính bền vững là sự phân tán CY. Phân tán CY là có CY nhưng không tập trung cao độ, lâu bền vào đối tượng, cũng như không phân phối di chuyển CY một cách có tổ chức. Tính bền vững của CY không mâu thuẫn với sức tập trung CY và sự di chuyển của CY. Tính bền vững của CY có quan hệ mật thiết với các đặc điểm của cá nhân cũng như điều kiện khách quan của hoạt động. Thứ ba là sự phân phối CY. Đây là khả năng cùng một lúc CY đầy đủ đến nhiều đối tượng hay nhiều hoạt động khác nhau một cách có chủ định. Phân phối CY không có nghĩa là chia đều CY cho mọi đối tượng hoạt động mà có sự không đồng đều CY ở các đối tượng khác nhau, đối tượng chính được CY nhiều, các đối tượng khác được CY ít hơn. Muốn phân phối CY tốt thì phải đưa một số đối tượng hoạt động trở thành quen thuộc, chỉ có một hay một số hoạt động mới. Sự phân phối CY không có mâu thuẫn gì với sức tập trung CY vì trong phân phối CY cũng có sự tập trung CY vào hoạt động mới. Thứ tư là sự di chuyển CY: Đó là khả năng chuyển CY từ đối tượng này sang đối tượng khác theo yêu cầu của hoạt động. Sự di chuyển CY không mâu thuẫn với độ bền vững của CY và cũng không phải phân tán CY vì nó được di chuyển từ đối tượng này sang đối tượng khác một cách có ý thức và khi chuyển sang đối tượng CY mới thì CY lại được tập trung với cường độ cao.
Từ những đặc điểm về khả năng tập trung CY, để rèn luyện khả năng này ở học sinh, giáo viên nên giao cho các em những công việc hay bài tập đòi hỏi sự CY và nên giới hạn về mặt thời gian. CY áp dụng linh động theo từng độ tuổi và lưu ý đến tính cá thể của học sinh, điều này là vô cùng quan trọng và ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả giáo dục. Có những trẻ phát triển hơn về tinh thần và ngôn ngữ nhưng lại kém các bạn đồng lứa về mặt hoạt động hoặc ngược lại, vì vậy tùy theo năng lực của học sinh, giáo viên có cân nhắc đặt ra yêu cầu vừa sức so với khả năng cố gắng thực hiện của các em.
3. Tập trung CY thường diễn ra trong một thời gian nhất định tùy theo độ tuổi. Vì vậy, sau mỗi tiết học giáo viên nên yêu cầu cả lớp ra ngoài giải lao, vui chơi vào giờ chơi (không nên ngồi lại trong lớp). Việc trẻ vận động, tập thể dục hay tham gia chơi một môn thể thao nào đó sẽ giúp máu luân chuyển đều khắp cơ thể, làm gia tăng hoạt động trí não, tăng độ nhạy bén. Đồng thời cũng nhắc nhở học sinh không bỏ bữa sáng vì ăn sáng đảm bảo sẽ nâng cao khả năng CY trong học tập. Ở học sinh sự CY không chủ định rất dễ xuất hiện, chỉ cần có sự thay đổi nhỏ là sự CY này sẽ lấn át sự CY chủ định. Ngoài khả năng tập trung CY ổn định, khả năng chuyển hướng CY của học sinh cũng rất mạnh. Trẻ có thể căn cứ theo yêu cầu mà chủ động và kịp thời chuyển sự CY từ đối tượng này sang đối tượng khác.
Phạm Thị Ngần (Giảng viên tâm lý học)
Mỗi thuộc tính của CY có thể giữ vai trò tích cực hay không tùy thuộc vào việc vận dụng từng thuộc tính hay phối hợp các thuộc tính theo yêu cầu của hoạt động. Trên cơ sở hiểu biết những thuộc tính cơ bản của CY, đặc điểm tâm lý lứa tuổi của học sinh, giáo viên sẽ có những tác động phù hợp để rèn lyện khả năng CY nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục.