Thứ ba, 28/7/2020, 20h00

Gian nan thương mại hóa nghiên cứu khoa học

So vi các nưc ASEAN+3, Vit Nam đng cui và cách bit khá xa vi mt sc trong khu vc v tình hình xác lp quyn s hu trí tu ti các trưng ĐH.


Các đi biu trao đi ti hi tho

Đó là nhận định chung của các chuyên gia trong nước và quốc tế tại Hội thảo “Thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học, bài học từ các nước, hiện trạng và đề xuất mô hình thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học”. Hội thảo do Trung tâm Ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ (Saigon Innovation Hub - SIHUB, Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM) tổ chức mới đây.

T phòng thí nghim ra th trưng còn nhiu rào cn

Ông Huỳnh Kim Tước (CEO SIHUB) nhận định, ở các nước tiên tiến, giảng viên và nhà khoa học lấy hoạt động nghiên cứu làm nguồn thu chủ yếu. Ngược lại, các trường ĐH ở Việt Nam, việc dạy học vẫn là nhiệm vụ hàng đầu. Hội thảo này nhằm kết nối, hỗ trợ nhà nghiên cứu tại các trường ĐH, viện nghiên cứu đưa kết quả nghiên cứu từ phòng thí nghiệm ra thị trường.

Tại hội thảo, các chuyên gia trong nước và quốc tế đã chia sẻ nhiều bài học kinh nghiệm và mô hình thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học của Hàn Quốc, Đức, Úc… Theo đó, các chuyên gia đã chỉ ra những nguyên nhân dẫn đến hoạt động thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học từ phòng thí nghiệm ra thị trường còn gặp nhiều khó khăn. Trong những năm gần đây, chủ trương áp dụng cơ chế tự chủ của Chính phủ đối với các trường đã thúc đẩy các cơ sở giáo dục bậc cao tiệm cận với cơ chế thị trường. Các trường phải quan tâm đến việc tạo được các sản phẩm, dịch vụ tốt cho thị trường từ nguồn lực sẵn có. Tuy nhiên, vẫn còn rất nhiều rào cản về chính sách, nhận thức, thói quen, kiến thức liên quan đến bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ… Ở cấp trường, công nghệ dừng lại ở phòng thí nghiệm nên rủi ro cao khi triển khai ứng dụng hoặc các trường còn xem nhẹ việc nghiên cứu những đề tài, giải pháp có giá trị đối với sự phát triển của kinh tế - xã hội. Bà Nguyễn Minh Huyền Trang (Phó Giám đốc phụ trách sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ, ĐH Quốc gia TP.HCM) đánh giá: So sánh với các nước ASEAN+3 thì Việt Nam đứng cuối và cách biệt khá xa với một số nước trong khu vực như Thái Lan, Singapore về tình hình xác lập quyền sở hữu trí tuệ tại các trường ĐH. Cụ thể, theo Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (năm 2017), tổng số đơn sáng chế và giải pháp hữu ích của Thái Lan, Malaysia và Việt Nam lần lượt là 3.133, 1.439 và 669. Bà Trang thông tin thêm, số đơn đăng ký sáng chế tại Việt Nam tăng gần gấp đôi trong giai đoạn 2007 (2.860 đơn) - 2017 (5.382 đơn). Tuy nhiên, đáng buồn là số chủ đơn Việt Nam chỉ chiếm 10%, còn 90% thuộc về các tổ chức, cá nhân nước ngoài.

Tìm đu ra cho nghiên cu khoa hc

Bà Nguyễn Minh Huyền Trang cho rằng hiện có khoảng 10% doanh nghiệp Việt Nam sử dụng công nghệ lạc hậu từ những năm 1970; 30% sử dụng công nghệ từ năm 1980 và 50% doanh nghiệp sử dụng công nghệ từ năm 1990. Đó là nguyên nhân vì sao sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam không đáp ứng  được chất lượng và không phong phú về mẫu mã dẫn đến sức cạnh tranh thấp. Quá trình chuyển giao công nghệ giữa trường ĐH và doanh nghiệp đang là vấn đề còn nhiều bất cập, hạn chế. Bà Trang dẫn chứng, nhiều nhà khoa học nản lòng bởi các quy định: Chuyển giao công nghệ phức tạp; cơ chế thẩm định giá trị kết quả nghiên cứu tạo lập từ nguồn ngân sách Nhà nước; thủ tục giao quyền sở hữu, quyền sử dụng khó khăn. Điều đáng nói là tư duy cũ, bán cái có sẵn chứ chưa phải bán cái doanh nghiệp cần. Từ thực trạng đó, bà Trang đề xuất: Xây dựng chính sách đãi ngộ hợp lý, khuyến khích bằng cơ chế khen thưởng, tài chính cho các tác giả có nhiều đăng ký sở hữu trí tuệ và đặc biệt là sở hữu trí tuệ được thương mại hóa thành công; xây dựng chính sách, quy định quy chế đẩy mạnh và hỗ trợ bảo hộ, quản trị tài sản trí tuệ và tăng cường thực thi quyền sở hữu trí tuệ vì mục tiêu phát triển về số lượng, chất lượng cả hàm lượng khoa học lẫn hàm lượng kinh tế của các tài sản trí tuệ. Đồng thời thường xuyên thực hiện hoạt động rà soát đề xuất, góp ý điều chỉnh, bổ sung chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho việc đăng ký sở hữu trí tuệ...

Theo đánh giá ca các chuyên gia, ti TP.HCM, các sáng chế đưc thương mi hóa tương đi kh quan nhưng ch mi tp trung mt s trưng như: ĐH Bách khoa TP.HCM, ĐH Nông Lâm TP.HCM, ĐH Công nghip TP.HCM… và sc lan ta thương mi hóa cũng chưa đt kết qu cao.

Trong khi đó, TS. Thomas Guidat (Trung tâm Quan hệ doanh nghiệp và chuyển giao công nghệ - Trường ĐH Việt Đức) giới thiệu mô hình ba vòng xoắn của Đức với mô hình Triple Helix của Viện Fraunhofe thực hiện nghiên cứu ứng dụng tiện ích trực tiếp cho doanh nghiệp tư nhân và công cộng. Mô hình này được sử dụng để mô tả sự phối hợp giữa các tác nhân chính thúc đẩy sản phẩm nghiên cứu khoa học ra thị trường. Đó là mối quan hệ hợp tác giữa ba bên: Doanh nghiệp, Chính phủ và trường, viện. So với các trường ĐH, viện chủ yếu tập trung nghiên cứu theo hợp đồng của doanh nghiệp, các dự án đầu tư từ Chính phủ hoặc đầu tư từ viện nghiên cứu… Ông Thomas Guidat cho biết thành phố mới Bình Dương là một trong những dự án lớn nhất của viện trong việc áp dụng mô hình Triple Helix tại Việt Nam. Đây là cơ hội để các nhà khoa học, các trường, viện thương mại hóa nghiên cứu khoa học mà Việt Nam đang mong muốn.

Ở góc nhìn khác, ông Brian O’Reilly (Giám đốc Hiệp hội Doanh nghiệp Úc tại Việt Nam) chia sẻ, tại Úc có nhiều nghiên cứu, phát minh được thương mại hóa phục vụ văn hóa tri thức trong trường ĐH. Lúc này, vai trò của các trường ĐH được ghi nhận. Riêng tại Việt Nam, để chuyển nghiên cứu trên giấy thành những phi vụ thương mại, điều kiện cần là các trường cần nâng cao tri thức và kỹ năng, phát triển văn hóa khởi nghiệp và cải cách khen thưởng ở các trường. “Chuyển giao công nghệ ảnh hưởng trực tiếp đến đổi mới sáng tạo, tạo đầu ra cho nghiên cứu khoa học, đó cũng là mong đợi của Úc trong việc hợp tác với Việt Nam trong tương lai”, ông Brian O’Reilly nhấn mạnh.

T.Tri