Thứ tư, 9/11/2022, 11h02

Úc: Sinh viên quốc tế trở lại chọn trường danh tiếng

Khi biên gii ca Úc đóng ca trong thi gian Covid-19, sinh viên quc tế là mt trong s nhng ngưi b mc kt. Điu này làm gián đon cuc sng, nghiên cu và đt mt ngun thu ln cho các trưng ĐH Úc. D  liu mi nht cho thy sinh viên quc tế đang quay tr li Úc. K t khi biên gii quc tế m ca tr li vào tháng 12 năm 2021, sng sinh viên du hc Úc đã tăng hơn 120.000 ngưi.


Sinh viên quc tế là ngun lc quan trng cho lĩnh vc giáo dc ĐH ca Úc. Ảnh: The Australian

Đơn xin thị thực sinh viên - một chỉ số đánh giá số lượng sinh viên trong tương lai, cũng ở mức kỷ lục.

Nhưng sự tăng trưởng này không được chia đều cho khu vực ĐH. Các trường ĐH lớn hơn, danh tiếng hơn có khả năng được hưởng lợi nhiều nhất từ ​​việc sinh viên quay trở lại.

Nhưng ngoài các tiêu đề về ngân sách, chúng ta cần nhìn vào chính sách giáo dục quốc tế của Úc (quyết định nơi sinh viên quốc tế học và họ phải trả những gì). Điều này sẽ có tác động lớn nhất đến việc tài trợ cho các trường ĐH.

Sinh viên đang tr li

Trước Covid-19, có khoảng 580.000 sinh viên quốc tế đang sinh sống tại Úc.

Khi Úc bắt đầu đóng cửa biên giới quốc tế vào tháng 1 năm 2020, nhiều sinh viên quốc tế đã ở quê nhà trong thời gian nghỉ học kỳ. Vì điều này, hàng ngàn người đã bị mắc kẹt bên ngoài nước Úc.

Bất chấp những nỗ lực nhiều lần của các trường ĐH và Chính phủ để đưa họ trở lại, sinh viên quốc tế hiện tại và sinh viên quốc tế mới phần lớn không thể nhập cảnh vào đất nước này. Đến tháng 12 năm 2021, số lượng sinh viên quốc tế tại Úc đã giảm hơn một nửa xuống còn khoảng 250.000 người.

Việc dỡ bỏ các hạn chế đi lại và các yêu cầu kiểm dịch đối với những người không phải là công dân được tiêm chủng đầy đủ vào giữa tháng 12 năm 2021 đã ngăn chặn đà suy giảm.

Đến tháng 10 năm 2022, số lượng sinh viên quốc tế tại Úc đã tăng trở lại khoảng 370.000 người. Vẫn có hơn 72.000 người có thị thực du học sinh bên ngoài nước Úc. Khoảng một nửa trong số này là du học sinh Trung Quốc, những người vẫn bị hạn chế đi lại ở nước sở tại.

S th thc là mt du hiu tt

Sẽ mất một thời gian để số lượng sinh viên quốc tế đăng ký trở lại mức trước đại dịch.

Điều này là do đại dịch đã làm gián đoạn con đường học tập của sinh viên. Sinh viên thường học từ hai đến bốn năm. Không có sinh viên mới để thay thế những người đang kết thúc khóa học của họ, số lượng sinh viên quốc tế đã giảm.

Điều này cũng có nghĩa là những mất mát phải trải qua trong đại dịch sẽ được cảm nhận trong vài năm tới. Nhưng có những dấu hiệu đáng mừng. Một cách để đo lường nhu cầu trong tương lai của sinh viên quốc tế là thông qua số lượng thị thực sinh viên được cấp. Thị thực sinh viên là một chỉ số hàng đầu vì sinh viên yêu cầu thị thực trước khi họ có thể nhập học.

Thị thực sinh viên được cấp cho tháng 7 và tháng 8 năm 2022 là mức cao nhất so với những năm trước. Thị thực dành cho sinh viên đến từ Trung Quốc và Ấn Độ, hai thị trường lớn nhất của Úc, đã gần như trở lại mức trước đây. Các ứng dụng từ các quốc gia khác cũng đang tăng lên.

Một phần của điều này có thể là do các chính sách khiến Úc trở thành một điểm đến du học đáng mơ ước hơn. Úc, cũng như Vương quốc Anh, đã tăng cường khả năng tiếp cận với các quyền làm việc sau khi học tập. Điều này có nghĩa là sinh viên trong một số khóa học có thể ở lại Úc lâu hơn sau khi họ kết thúc khóa học của mình.

Chính phủ Úc cũng đã tạm thời nới lỏng các hạn chế làm việc, bỏ giới hạn về số giờ sinh viên quốc tế có thể làm việc.

Ti sao sinh viên quc tế li quan trng như vy?

Sinh viên quốc tế là nguồn lực quan trọng cho lĩnh vực giáo dục ĐH của Úc. Không một trường ĐH nào có thể hoạt động như hiện tại nếu không có nguồn thu từ học phí của sinh viên quốc tế.

Vào năm 2019, trước khi đại dịch xảy ra, doanh thu của sinh viên quốc tế là 10 tỷ đô la Úc trong toàn bộ khu vực ĐH.

Nhưng nguồn lực này tập trung ở một số cơ sở nhất định. Và các trường ĐH lớn hơn và danh tiếng hơn được hưởng lợi nhiều nhất.

Các trường ĐH danh tiếng nhất (được gọi là “Nhóm 8 trường ĐH”) chiếm hơn một nửa doanh thu mà các trường ĐH nhận được từ sinh viên quốc tế.

Điều này là do các trường ĐH này, bao gồm các trường ĐH Sydney, Melbourne và Queensland, có thể thu phí cao hơn do uy tín, thứ hạng cao hơn, nguồn lực lớn hơn và vị trí thuận lợi.

Đối với bằng kinh doanh - khóa học phổ biến nhất dành cho sinh viên quốc tế - Nhóm 8 trường ĐH thu phí khoảng 50.000 đô la hàng năm. Con số này cao hơn gấp đôi so với một số trường ĐH khác tính phí cho cùng một khóa học. Đối với cùng một sinh viên địa phương, các trường ĐH nhận được $15,600.

Doanh thu mà sinh viên quốc tế mang lại là rất lớn. Ví dụ, trong ngân sách gần đây, Chính phủ Albanese đã công bố 485 triệu đô la trong 4 năm cho 20.000 chỗ học thêm cho sinh viên địa phương. Trong 4 năm trước đại dịch, các trường ĐH đã tăng doanh thu cho sinh viên quốc tế của họ thêm 4,6 tỷ đô la. Nhóm 8 trường ĐH chiếm một nửa mức tăng này.

Tăng khong cách gia các trưng ĐH

Sự chênh lệch có nguy cơ khuyến khích một hình thức mà các nhà nghiên cứu gọi là “dư thừa”.

Điều này xảy ra khi sinh viên từ các nền kinh tế và giáo dục có điều kiện thuận lợi hơn có thể đăng ký vào các trường ĐH danh tiếng hơn, có nguồn lực tốt hơn.

Doanh thu từ sinh viên quốc tế được trả lương cao được sử dụng để trợ cấp cho các hoạt động khác trong các trường ĐH này, chẳng hạn như nghiên cứu. Doanh thu tăng thêm cho phép đầu tư nhiều hơn vào cơ sở hạ tầng, điều này cũng làm tăng sức hấp dẫn của trường ĐH như một điểm đến học tập cho sinh viên bản địa và quốc tế.

Các trường ĐH nhỏ hơn, thường phục vụ cho các nhóm khó khăn hơn, đã bỏ lỡ. Số lượng tuyển sinh thấp hơn và ít nguồn lực hơn cũng có nghĩa là các trường ĐH nhỏ hơn này phải đối mặt với những thách thức bổ sung như số lượng môn học hạn chế và ít dịch vụ hỗ trợ sinh viên hơn.

Đó là một vấn đề tương tự trong lĩnh vực dạy nghề, nơi chỉ có 5% sinh viên quốc tế theo học tại các trường cao đẳng TAFE. Điều này có nghĩa là TAFE không nhận được nhiều doanh thu cần thiết.

Điu gì xy ra bây gi?

Những lý do cho những lợi ích chênh lệch rất phức tạp. Chính sách giáo dục quốc tế gắn liền với chính sách di cư - tất cả sinh viên quốc tế đều là những người di cư tạm thời. Khả năng tiếp cận thị trường lao động và tình trạng tương đối của các cơ sở giáo dục nhất định đều đóng vai trò trong việc thúc đẩy sự lựa chọn của sinh viên.

Nhưng giá trị của sinh viên quốc tế đối với ngành giáo dục của Úc và các nguồn lực mà họ mang lại là vô cùng quan trọng.

Tìm cách đảm bảo lợi ích được trải đều hơn sẽ là một chặng đường dài để làm cho lĩnh vực giáo dục trở nên công bằng hơn.

Thy Phm (Theo TheConversation)