Chủ nhật, 6/9/2020, 16h23

Văn hóa trong phát triển du lịch

Con ngưi không ch sng trong môi trưng sinh thái mà còn sng c trong môi trưng văn hóa mà các nhà nghiên cu gi là sinh thái văn hóa (Culturai ecology). Văn hóa hình thành do con ngưi, nhưng chính con ngưi s b nhim đc nếu sinh thái văn hóa không trong sch. Vì vy vic bo v s thun khiết ca sinh thái văn hóa cũng không kém phn quan trng như khi chúng ta bo v s trong sch ca môi trưng sinh thái. Và nht là trong s phát trin du lch như hin nay, vic đ ra nhng bin pháp bo v thích hp và c th, xây dng nhng chiến lưc đúng đn thì di sn lch s văn hóa s không b đe da, sinh thái văn hóa s không b ô nhim bi hot đng du lch to nên.


Khách du lch quc tế đi viếng đn chùa ca Vit Nam

Mi quan h gia du lch và văn hóa

Ở nước ta, văn hóa là một trong những điểm tựa của du lịch Việt Nam trên đường hội nhập. Bởi lẽ, nội hàm của kinh tế du lịch chính là văn hóa. Vì vậy, để du lịch phát triển bền vững, phải đặt lên hàng đầu vấn đề bảo tồn, tôn tạo, giữ gìn, truyền bá, phát huy các giá trị văn hóa dân tộc.

Thật vậy, du lịch và văn hóa tuy hai khái niệm khác nhau nhưng nhìn từ một khía cạnh nào đó, du lịch chính là hành vi văn hóa. Trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng, có nhiều loại hình du lịch: du lịch sinh thái, du lịch về nguồn, du lịch thám hiểm, du lịch tìm hiểu phong tục tập quán… nhưng dù là loại hình du lịch nào, ở đâu, nước nghèo hay nước giàu du lịch bao giờ cũng gắn liền với văn hóa, với bản sắc dân tộc của mỗi quốc gia. Có thể nói, không có ngành kinh tế nào gắn bó với văn hóa như du lịch, đó là sự gắn bó tự nguyện. Có người còn ví von là giống như con trai và con gái, phải tìm đến một cách tự nhiên. Từ văn hóa trong ứng xử, văn hóa trong ăn mặc, văn hóa trong đón và tiễn, văn hóa trong thu phục nhân tâm và văn hóa trong giới thiệu hình ảnh của đất nước mình ra nước ngoài.

Theo chiều hướng đó, có thể khẳng định rằng cái làm nên “sản phẩm du lịch” (tourism product) và là nội dung chủ yếu của các “điểm đến du lịch” (tourism destination) ở Việt Nam nhằm có thể thu hút đông đảo khách du lịch (đặc biệt là khách du lịch quốc tế) trước hết và chủ yếu là tài nguyên văn hóa - bao gồm cả tài nguyên nhân văn (tài nguyên vật thể và phi vật thể). Nói cách khác, tính đa dạng và độc đáo của sản phẩm du lịch Việt Nam, cái làm cho du lịch Việt Nam có thể khẳng định vị thế của mình được quyết định trước hết bởi khả năng khai thác tính phong phú, độc đáo, đặc sắc của vốn văn hóa dân tộc. Các tour du lịch văn hóa ra đời là minh chứng cho tầm quan trọng của văn hóa và mối liên hệ giữa văn hóa với du lịch. Du lịch không chỉ mang lại lợi ích kinh tế mà còn giúp góp phần giới thiệu văn hóa và con người Việt Nam với thế giới, đồng thời tạo ra sự thoải mái, thư giãn, hiểu biết thêm về đất nước, tăng thêm lòng yêu mến quê hương, tự hào dân tộc.

Cn cn trng đ thăng hoa

Việt Nam là một đất nước có nhiều danh lam thắng cảnh, nhiều di sản văn hóa dân tộc. Đó là một lợi thế to lớn trong việc đẩy mạnh phát triển ngành du lịch của nước ta. Những năm qua theo nhịp điệu đổi mới của đất nước, ngành du lịch không ngừng phát triển, nhanh chóng hòa nhập với du lịch thế giới. Việc đẩy mạnh phát triển du lịch cũng như mở rộng các mối quan hệ là cần thiết và đem lại nhiều lợi ích. Tuy nhiên, bên cạnh những cái mới vươn lên trong du lịch vẫn phải khẳng định có nhiều điểm du lịch còn nặng về tính thương mại mà coi nhẹ những giá trị văn hóa vốn có của nó.

Sự phát triển du lịch đem lại những hiệu quả kinh tế đáng kể, riêng việc phát triển du lịch văn hóa có thể góp phần khôi phục các di sản và làm sống lại các truyền thống, đóng góp hữu hiệu cho việc bảo tồn trùng tu các di tích. Tuy nhiên kiểu phát triển tự phát, buông thả và bừa bãi sẽ đem lại kết quả trái ngược. Chính sự khai thác quá mức di sản sẽ dẫn đến việc: lượng du khách tỷ lệ thuận với hủy hoại di sản, thậm chí đến mức mất hết sức hấp dẫn. Điều này có hai khả năng, một là cái mất lớn hơn cái có được từ du lịch; và hai là ngược lại thu đủ tiền để trùng tu và tôn tạo, cả hai khả năng này có thể xảy ra. Các dự án bảo tồn - tôn tạo thường đặt trên cơ sở kinh tế. Di tích cổ được tân trang, phục chế nhưng lại không áp dụng chất liệu cổ xưa mà bằng cách tô vẽ mới lại, thậm chí xây dựng thêm để bắt mắt thu hút thị giác người xem, phát triển “siêu thị di sản”, để đáp ứng nhu cầu thị hiếu trước mắt. Khi các di sản đó không còn phù hợp với loại hình du lịch nữa thì có thể người tạo dựng ra các bản sao di sản không đề bảo vệ di sản gốc và cũng không phải để tôn vinh truyền thống mà để kiếm lợi, điều này có khả năng bị đánh mất di sản của cha ông.

Khách du lch quc tế đến thưng thc văn hóa trà ti trà quán Ông Đ, TP.HCM

Du lch và văn hóa có mi quan h bn cht. Nưc ta có đ mi điu kin thun li đ phát trin du lch, có mt nn chính tr hòa bình n đnh, có nhiu danh lam thng cnh, con ngưi Vit Nam nhit tình mến khách, có mt nn văn hóa đm đà bn sc văn hóa dân tc. Đây là mt li thế văn hóa thu hút khách du lch nếu chúng ta xây dng đưc nhng chiến lưc đúng đn, phù hp và phát huy thế mnh ca ngun tài nguyên du lch. Bng ngưc li môi trưng văn hóa s b ô nhim do hot đng du lch to nên.

Đi du lịch, cái mà du khách muốn được thưởng thức chiêm ngưỡng là những cái mới lạ, những thứ đặc sắc độc nhất vô nhị. Chính vì sự hiếu kỳ, đám đông những du khách không mời mà tới, thâm nhập vào các xóm, làng, bản, buôn… vốn sống theo kiểu khép kín, điều đó đã vô tình bị lôi vào tham gia hoạt động kinh tế trong du lịch, ảnh hưởng đến tri thức bản địa. Họ bước vào những nơi tôn nghiêm với tư cách du khách mua tour, tức họ xác tín rằng du lịch văn hóa là hoạt động được tiến hành trên cơ sở thỏa thuận của người bán (văn hóa) và họ là người mua. Không ít du khách nước ngoài đã vô tư trong cách ăn mặc và tác phong: mặc quần soóc, áo mai ô, áo hai dây, đi đứng “vô phép” khi vào chánh điện đền Hùng và các chùa chiền trong những buổi lễ nghi tôn giáo, lễ hội cộng đồng một cách chụp hình “vô ý vô tứ”. Điều đó tạo nên sự xung đột căng thẳng giữa du khách và cộng đồng đón tiếp xảy ra mâu thuẫn. Nguyện vọng chính yếu của hoạt động du lịch xúc tiến hòa bình và hiểu biết lẫn nhau, do đó ngành du lịch phải có những thông tin hướng dẫn về phép tắc giao tiếp cho những trường hợp cụ thể, tránh những tổn hại có thể xảy ra.

Xét về khía cạnh văn hóa thì phương thức phát triển du lịch hóa các loại hình văn hóa và việc tái tạo di sản kiểu như thế có nghĩa là đã làm giảm đi giá trị đích thực vốn có của di sản hay nói cách khác là tự mình “giết chết” di sản mà mình không hay. Ông Veng Seneyuth - Bộ trưởng du lịch Campuchia xót xa nói: “Hàng trăm ngàn đôi giày cứng đang ngày ngày giẫm lên những kho tàng văn minh bằng đá của Angkor, chỉ nghĩ đến cũng đã đau lòng. Rồi mai này đá cũng mòn đi sẽ còn ai đến đây?”.  Làm du lịch cũng có nghĩa là làm kinh tế, nhưng làm kinh tế theo phương châm lấy văn hóa làm điểm tựa định hướng chiến lược phát triển của mình. Trong xã hội hiện đại, du lịch đóng vai trò đặc biệt quan trọng, là một công cụ đặc thù cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống, là mối dây liên hệ và phát triển sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc. Du lịch đem lại lợi ích kinh tế, nhưng du lịch không thể và cũng không phải là hoạt động kinh tế thuần túy.

ThS. Nguyn Hiếu Tín