Thứ ba, 2/6/2009, 14h01

Gợi ý giải đề thi môn Văn, kỳ thi tốt nghiệp THPT 2009

Giáo Dục Online mời các bạn thí sinh xem gợi ý tham khảo giải đề thi môn Ngữ văn kỳ thi tốt nghiệp THPT năm học 2008 - 2009 chương trình dành cho thí sinh giáo dục THPT (những gợi ý này chỉ có tính chất tham khảo).

KỲ THI TỐT NGHIỆP PHỔ THÔNG TRUNG HỌC NĂM 2009
Môn thi : Văn – Giáo dục trung học phổ thông

PHẦN CHUNG CHO TẤT CẢ THÍ SINH (5,0 điểm)

Câu 1 (2 điểm)

Trong truyện ngắn Thuốc của Lỗ Tấn, khách ở quán trà nhà lão Hoa đã bàn về những chuyện gì ? Hãy cho biết điều nhà văn muốn nói qua những chuyện ấy.

Câu 2 (3 điểm)

Anh/ chị hãy viết một bài văn ngắn (không quá 400 từ) phát biểu ý kiến về tác dụng của việc đọc sách.

PHẦN RIÊNG (5 điểm)

Thí sinh học chương trình nào thì chỉ được làm câu dành riêng cho chương trình đó (câu 3.a hoặc 3.b)

Câu 3.a. Theo chương trình Chuẩn (5,0 điểm)

Phân tích giá trị nhân đạo của truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của nhà văn Tô Hoài (phần trích trong Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục – 2008).

Câu 3.b. Theo chương trình Nâng cao (5,0 điểm)

Phân tích vẻ đẹp của hình tượng sông Hương trong tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông? Của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường (phần trích trong Ngữ văn 12 Nâng cao, Tập một, NXB Giáo dục – 2008).

BÀI GIẢI GỢI Ý

Câu 1.

a. Giới thiệu vài nét về tác giả – tác phẩm:

-Tác giả: Lỗ Tấn (1881 – 1836) là nhà văn lớn có nhiều đóng góp quan trọng cho nền văn học Trung Quốc nửa đầu thế kỷ XX.

-Tác phẩm Thuốc đăng lần đầu tiên trên tạp chí Tân thanh niên số 5/1919. Tác phẩm được đánh giá là tác phẩm xuất sắc nhất của Lỗ Tấn, nó như một “tiếng thét để an ủi những người chiến sĩ” và để cảnh tỉnh tinh thần nhân dân, truyền cho họ ý chí nghị lực bước vào giai đoạn đấu tranh mới.

b.Câu chuyện của những người khách trong quán trà bàn về

- Cái chết của người tử tù Hạ Du và cho rằng anh ta là kẻ “điên rồi”.

-Việc ông Hoa Thuyên mua được chiếc bánh tẩm máu người tử tù.

-Hiệu quả của liều thuốc được truyền tụng trong dân gian chữa bệnh lao bằng bánh bao chấm máu tươi của người.

c.Qua những chuyện ấy tác giả muốn nói:

-Tỏ thái độ đau xót, tiếc thương cho người chiến sĩ chiến đấu hy sinh cho quần chúng mà quần chúng “ngu muội quá đỗi” không hiểu. Cùng với ý nghĩa trên, tác giả đưa ra tư tưởng chủ đề của tác phẩm: cần có liều “thuốc” mới chữa căn bệnh rời rã của quốc dân.

-Phê phán bộ phận nhân dân Trung Hoa ngu muội, lạc hậu, cho thấy xã hội Trung Quốc là một “con bệnh trầm trọng” đòi hỏi một liều “thuốc” mới, cần phát quang một “con đường” mới.

Câu 2. Có thể tham khảo những luận điểm chính sau đây:

-Tác dụng của việc đọc sách:

+ Cung cấp thông tin và kiến thức về mọi mặt.

+ Giáo dục, nâng cao khiếu thẩm mĩ, phát triển trí tuệ. Đọc sách là khát vọng của mọi người trong việc chinh phục tri thức.
+ Bồi dưỡng đạo đức, tình cảm, hoàn thiện bản thân và góp phần xây dựng đất nước.
-Vai trò của sách trong thời đại thông tin nghe – nhìn: khẳng định các phương tiện thông tin nghe – nhìn đang phát triển ngày nay không thể thay thế được hoàn toàn cho việc đọc sách.

Câu 3.a.

a. Giới thiệu: sơ qua vài nét về tác giả, tác phẩm

b. Phân tích giá trị nhân đạo (phần trọng tâm)

- Cô Mị xinh đẹp, chăm làm nhưng nghèo khổ. Bố mẹ nghèo, cưới nhau không có tiền phải vay nợ nhà thống lí. Nợ chưa trả hết, người mẹ đã qua đời. Bố già yếu quá, món nợ truyền sang Mị, Thống lí Pá Tra muốn Mị làm con dâu “gạt nợ”.

- Cuộc đời nô lệ của A Phủ thật ra là sự lặp lại với ít nhiều biến thái chính cuộc đời Mị. Kết quả là người con trai khỏe mạnh phóng khoáng vì lẽ công bằng mà phải đem cuộc đời mình trả nợ nhà quan.

- Cô gái trẻ trung, yêu đời ngày nào thổi sáo hồi hộp chờ đợi người yêu, đã từng hái lá ngón định ăn để khỏi chịu nhục, giờ đây lại chai lì, u uất. Nếu xem xét giá trị hiện thực của một tác phẩm như là sự phản ánh chân thật cuộc sống, thì Vợ chồng A Phủ quả là bản cáo trạng hùng hồn về nỗi thống khổ của người phụ nữ miền núi, vừa chịu gánh nặng của chế độ phong kiến, vừa bị trói chặt trong xiềng xích.

- Tô Hoài đã lột trần bản chất bóc lột của giai cấp thống trị ở miền núi trước cách mạng, đại diện là gia đình Thống lí Pá Tra. Cô Mị, tiếng là con dâu nhưng thực sự là một nô lệ. Dần dần rồi Mị cũng quên luôn mình là con người nữa. Suốt ngày “Mị lầm lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”, lúc nào cũng cúi mặt, thế giới của Mị thu hẹp trong một cái ô cửa sổ” mờ mờ trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”.

- Nhà văn tố cáo bản chất xã hội vô nhân đạo của giai cấp thống trị.

- Tô Hoài đã phát hiện ra con đường tất yếu mà các nhân vật của ông đi tới. Sự đè nén quá nặng nề, những đau khổ chồng chất mà bọn thống trị gây ra tất sẽ dồn những kẻ khốn cùng ấy tới sự chống trả và nếu gặp được ánh sáng soi đường, họ sẽ đến được thắng lợi.

- Sự “vượt rào” của Mị tuy bị đàn áp ngay (A Sử đã tắt đèn, trói đứng cô vào cột); nhưng ý thức về quyền sống, khát vọng về hạnh phúc đã trở lại. Toàn bộ ý thức phản kháng của Mị hiện hình qua một câu hỏi sáng rõ: “người kia việc gì phải chết?” Mị quyết định trong khoảnh khắc: cắt dây trói giải thoát cho A Phủ, tự giải thoát chính mình. Hai kẻ trốn chạy chịu ơn nhau, cảm thông nhau, dựa vào nhau để tạo lập hạnh phúc. Cách mạng đã đến với họ đúng giây phút ấy. Mị và A Phủ đi theo cách mạng, sẽ thuỷ chung với cách mạng như một lẽ tất yếu! Đó là tấm lòng nhân đạo mới mẻ của Tô Hoài nhờ có ánh sáng của cách mạng.

- Tô Hoài đã tái hiện chân thật và sinh động cuộc hành trình từ đau khổ, tối tăm ra phía ánh sáng cách mạng của những người dân lao động với chế độ cũ. Tác phẩm đem lại cho bạn đọc nhận thức đúng đắn về con đường cách mạng dân tộc dân chủ ở nước ta.

- Giá trị nhân đạo của Vợ chồng A Phủ đã để lộ cái nhìn ưu ái của Tô Hoài đối với người dân miền núi.

- Giá trị nhân đạo còn được thể hiện qua việc mô tả tâm lí, biết trân trọng nâng niu con người, mới có thể xét đoán tâm hồn người ta tinh tế như vậy. Nếu nhà văn chỉ tuân theo một thứ hiện thực khách quan, lạnh lùng thì làm sao ông có thể đón đợi và nắm bắt tài tình giây phút sống lại bất ngờ và mãnh liệt đến thế của cô gái. Ông vẫn tin rằng hoàn cảnh dẫu có khắc nghệt đến mấy, cũng không thể tiêu diệt hoàn tòan nhân tính. Mị đã sống lại bằng tuổi trẻ, bằng nỗi day dứt về thân phận của mình. Chính cái khát vọng sống mãnh liệt không thể chết được ở Mị, làm cho Mị đồng cảm với cảnh ngộ của A Phủ và đi đến quyết định giải thoát cho A Phủ, giúp Mị tự giải thoát khỏi cái chốn địa ngục để làm lại cuộc đời, để sống như một con người. Thể hiện một niềm tin mạnh mẽ vào con người, đó là tấm lòng nhân đạo cao cả của nhà văn.

c. Kết luận

Cái nhìn của Tô Hoài về hai nhân vật chính của tác phẩm là một cái nhìn nhân đạo tích cực. Ông cảm thông nỗi đau của Mị và A Phủ, mặt khác ông trân trọng ý thức nhân phẩm, khát vọng giải phóng và tin ở khả năng tự làm chủ trước cuộc đời của hai con người đau khổ này.

Câu 3.b.

I.Giới thiệu: tác giả, tác phẩm, vẻ đẹp hình tượng dòng sông qua bút pháp tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường.

II. NỘI DUNG CHÍNH: (thí sinh có thể trình bày theo nhiều cách, nhưng phải đảm bảo những ý chính sau đây)

Tác phẩm ca ngợi vẻ đẹp sông hương ở nhiều góc độ: từ thượng nguồn tới khi qua kinh thành Huế; từ tự nhiên, lịch sử văn hoá, nghệ thuật.

1. Vẻ đẹp sông Hương ở thương nguồn:

- Ở đấy ta gặp một dòng sông đẹp, mạnh mẽ được ví như “cô gái Digan phóng khoáng và man dại”, sông như bản trường ca; sông như cơn lốc, sông như cô gái Di gan và nâng lên thành vẻ đẹp cao cả: “người mẹ phù sa”

- Tác giả tăng vẻ đẹp cho dòng sông bằng nghệ thuật nhân hoá.

2. Vẻ đẹp sông Hương trước khi về kinh thành Huế:

- Hương giang như “người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hoá đầy hoa dại”

- Dòng sông mềm như tấm lụa (hình dáng)

- Sớm xanh, trưa vàng, chiều tím (màu sắc)

- Trôi chậm như mặt hồ yên tĩnh (dòng chảy)

Tất cả đều đó tạo nên một vẻ đẹp trầm mặc, như triết lí như cổ thi.

Khi dòng sông chảy vào thành phố, tác giả đã có những phát hiện độc đáo về sông Hương.

3. Vẻ đẹp sông Hương chảy về đồng bằng và ngoại vi thành phố

Nó mang vẻ đẹp như chiều sâu hồn người:

Như xa lâu ngày gặp lại cố nhân kinh thành thân yêu nên sông Hương “vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của cùng ngoại ô Kim Long”.
+ Cảm xúc như trào dâng, dòng sông chợt mềm hẳn đi, say đắm lạ thường “như tiếng vâng không nói ra của tình yêu”

+ Dòng sông như lưu luyến lúc rời xa kinh thành, Nó tựa như một “nỗi vấn vương” và cả “một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu”.

Lối so sánh tài tình và nhân cách hoá độc đáo làm người đọc ngây ngất và tâm hồn thăng hoa theo dòng sông đa tình như một khách hào hoa phong nhã .

4. Vẻ đẹp khác của sông Hương:

- Dòng chảy lịch sử.

- Dòng chảy của văn hoá và thi ca.

- Dòng sông đi vào đời thường “nó trở về với cuộc sống bình thường, làm một cô gái dịu dàng của đất nước”.

III. Kết luận:

-Sông Hương được cảm nhận với nhiều góc độ, bằng bút pháp tài hoa và văn phong mềm mại, tạo nên đường nét thật tinh tế làm nên vẻ đẹp cổ kính của kinh thành.

-Đó là những phát hiện thú vị của tác giả, giúp chúng ta thêm tự hào và yêu đất nước.

TS. Nguyễn Thị Thu Vân
(Giảng viên ĐH Sài Gòn)