Thứ tư, 27/5/2020, 13h44

Đánh giá kết quả phẫu thuật tái tạo hình vú tức thì bằng vạt da cơ lưng rộng trong điều trị ung thư tuyến vú

Chiều ngày 26-5-2020, Sở Khoa học - Công nghệ Cần Thơ họp Hội đồng nghiệm thu đề tài khoa học “Nghiên cứu đánh giá kết quả phẫu thuật tái tạo hình vú tức thì bằng vạt da cơ lưng rộng trong điều trị ung thư tuyến vú, giai đoạn I-II, tại Bệnh viện Ung Bướu (BVUB) TP Cần Thơ, năm 2016-2020”.

Hội đồng nghiệm thu

Công trình do nhóm nghiên cứu là các bác sĩ chuyên khoa tại BVUB TP Cần Thơ thực hiện, chủ nhiệm đề tài là BS.CKII Huỳnh Thảo Luật.

Phẫu thuật đoạn nhũ tiết kiệm da - tái tạo vú tức thì sau mổ đoạn nhũ được y khoa thế giới đánh giá là an toàn về mặt ung thư học, cải thiện rõ rệt chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân ung thư vú, đặc biệt là bệnh nhân trẻ tuổi. Do vậy khuynh hướng phẫu thuật này được lựa chọn ngày càng nhiều. BVUB TP Cần Thơ triển khai kỹ thuật này từ năm 2015. Đề tài nghiên cứu nhằm đánh giá kết quả, và xác định một số yếu tố liên quan đến kết quả điều trị tái tạo hình vú tức thì.

Nghiên cứu tiến hành từ tháng 10/2016 đến 4/2020, trên 60 bệnh nhân được chẩn đoán ung thư vú giai đoạn I-II điều trị tại BVUB TP Cần Thơ. Tuổi trung bình là 42 tuổi. Theo đó, bệnh nhân được phẫu thuật đoạn nhũ chừa núm vú - nạo hạch nách và phẫu thuật tái tạo vú tức thì bằng vạt da cơ lưng rộng. Được theo dõi sau điều trị từ 24 đến 48 tháng. Những bệnh nhân không đủ điều kiện thực hiện phẫu thuật này gồm: Trên 60 tuổi; Ung thư vú tái phát sau phẫu thuật bảo tồn hoặc sau đoạn nhũ; Bệnh nhân béo phì; Bệnh nhân có ung thư thứ 2; Bệnh nhân nghiện thuốc lá, cơ địa sẹo lồi hoặc mắc bệnh đái tháo đường, bệnh tim mạch…

Các bệnh nhân đủ tiêu chuẩn tham gia nghiên cứu được chụp ảnh vùng ngực ở 2 tư thế thẳng và nghiêng trước mổ. Được gây mê toàn thân qua nội khí quản. Bác sĩ lựa chọn đường mổ đoạn nhũ tiết kiệm da tuỳ theo vị trí bướu, hình dạng của vú, vị trí sẹo sinh thiết. Tiến hành đoạn nhũ, chừa núm vú. Cắt lanh mô sau núm vú. Nếu kết quả âm tính là đạt. Nếu kết quả còn tế bào bướu (dương tính) thì chuyển sang đoạn nhũ tiết kiệm da qui ước, cắt bỏ quầng núm vú hoặc xạ trị bổ túc sau đó.

Sau khi đoạn nhũ, chuyển bệnh nhân về tư thế nằm ngửa, định hình và tái tạo lại vú bằng vạt da cơ lưng rộng, dẫn lưu hố nách và tại chỗ.

Điều trị hỗ trợ: Hoá trị sau khi có kết quả giải phẫu bệnh sau mổ, tuỳ theo kích thước bướu, tình trạng di căn hạch nách, diện cắt phẫu thuật. Chỉ tiến hành hoá trị khi vết mổ đã lành và các biến chứng (nếu có) đã ổn định. Xạ trị bổ túc được chỉ định khi diện cắt còn tế bào ung thư.

Đại diện nhóm nghiên cứu trình bày Đề tài nghiên cứu

Kết quả: tỉ lệ thẩm mỹ sau mổ 24 tháng: 63,8% đạt xuất sắc; 20,7% loại tốt; 15,5% loại khá. Tỉ lệ tái phát tại chỗ chiếm 5%; di căn xa chiếm 8,3%. Tỷ lệ sống còn không bệnh là 96,7%. 93,3% bệnh nhân hài lòng với kết quả phẫu thuật tái tạo vú tức thì. Qua khảo sát cho thấy: việc tái tạo lại được hình dáng tuyến vú đã giúp người bệnh có được sự tự tin và thoải mái tâm lý trong cuộc sống gia đình và xã hội. Các triệu chứng tác dụng phụ do điều trị hỗ trợ như hoá trị, xạ trị được phục hồi, góp phần giúp bệnh nhân tái hoà nhập cuộc sống. Những yếu tố trên làm cho chất lượng cuộc sống bệnh nhân cải thiện theo thời gian sau mổ.

… Qua xem xét, phản biện, Hội đồng nghiệm thu đánh giá cao Đề tài về tính ứng dụng và tính lan toả (đến nay BVUB TP Cần Thơ đã chuyển giao kỹ thuật này cho bệnh viện một số tỉnh khu vực Đồng bằng sông Cửu Long), và thống nhất xếp loại đề tài đạt xuất sắc.

Đan Phượng